Nợ 200 triệu đồng mà “áp tội” phá sản thì 99% doanh nghiệp đều… đang nguy!

ngày 13/09/2013

Phiên thảo luận về luật Phá sản sửa đổi tại UB Thường vụ QH sáng 13/9 ghi nhận nhiều băn khoăn về quy định DN không thanh toán được có khoản nợ đến hạn từ 200 triệu đồng trở lên trong thời hạn 3 tháng thì coi là lâm vào tình trạng phá sản.

Tờ trình của TAND tối cao giải thích quan điểm không mở rộng đối tượng điều chỉnh của Luật Phá sản sửa đổi lần này tới cả các cá nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình, xí nghiệp, các trường Đại học… là vì nhóm chủ thể này do Chính phủ quy định việc đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia tách, giải thế. Tuy nhiên, nhóm đối tượng là các ngân hàng, DN chứng khoán, Cty kinh doanh bảo hiểm, DNNN đã được đưa thêm vào.

Thẩm tra nội dung này, UB Kinh tế cũng nhận định, nếu mở rộng hơn nữa các đối tượng thuộc sẽ khó khả thi do hiện nay lực lượng cán bộ thuộc lĩnh vực này còn mỏng dẫn đến việc quá tải cho ngành Tòa án. Cơ quan thẩm tra nhất trí khuôn đối tượng áp dụng trong nhóm các DN, hợp tác xã.

Ngoài ra, UB Kinh tế lập luận, không nên có sự phân biệt giữa DNNN và DN thuộc các thành phần kinh tế khác, “can gián” ý định thiết kết một chương riêng về DNNN sẽ dẫn tới tình trạng đảo nợ, giấu nợ, bơm thêm vốn duy trì doanh nghiệp kém hiệu quả, phản ánh không trung thực thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN như thời gian qua.
Nợ 200 triệu đồng mà “áp tội” phá sản thì 99% doanh nghiệp đều… đang nguy!
Cả Chủ nhiệm UB Tư pháp (phải) và Chủ nhiệm UB Tài chính Ngân sách đều không tán thành tiêu chí về DN lâm vào tình trạng phá sản TAND tối cao đưa ra.

Về tiêu chí xác định DN lâm vào tình trạng phá sản, TAND tối cao muốn thay đổi Điều 3 trong luật hiện hành, thay vì quy định “DN không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản” cần đổi thành tiêu chí cụ thể DN không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn từ 200 triệu đồng trở lên trong thời gian 3 tháng kể từ ngày chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản.

Theo cơ quan soạn thảo, việc quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho DN có khoảng thời gian nhất định để thanh toán nợ.

Tán thành quan điểm quy định rõ tiêu chí và căn cứ để xác định DN lâm vào tình trạng phá sản, tuy nhiên, UB Kinh tế đề nghị làm rõ cơ sở xác định khi đưa ra hạn mức 200 triệu đồng.

Cơ quan thẩm tra cũng yêu cầu phía TAND tối cao nghiên cứu, bổ sung tiêu chí về báo cáo tài chính hoạt động sản xuất kinh doanh thời gian gần nhất của doanh nghiệp được tổ chức có thẩm quyền kiểm toán. Có ý kiến cần quy định phân biệt doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và doanh nghiệp phá sản.

Chủ nhiệm UB các vấn đề xã hội Trương Thị Mai đặt câu hỏi: “Căn cứ đưa ra tiêu chí phá sản với hạn mức nợ 200 triệu đồng làgì và TAND tối cao đánh giá tác động tới các doanh nghiệp và nền kinh tế như thế nào?”. Bà Mai tỏ ra băn khoăn vì năm 2012 chỉ có 82 trường hợp DN được tòa án thụ lý thủ tục phá sản trong khi có đến hàng nghìn DN giải thể, ngừng hoạt động. Con số đó khiến bà Mai nghi ngờ, quy định về việc phá sản không đáp ứng yêu cầu thực tế.

Phó Chánh án TAND tối cao Nguyễn Sơn giải trình, luật cũ không định lượng tình trạng cụ thể nên dù số lượng DN rất lớn nhưng số xin mở thủ tục phá sản quá nhỏ. Vì vậy, luật mới phải đưa vào hạn mức 200 triệu đồng và thời hạn 3 tháng. Mục đích để có căn cứ nhất định để xác định phá sản, cũng như có thời gian để các bên giải quyết với nhau thông qua thương lượng, trước khi đưa ra tòa.

Không xuôi với cách giải thích này, Chủ nhiệm UB Tư pháp Nguyễn Văn Hiện phê thẳng tiêu chí đề xuất là kém khả thi vì mỗi DN có quy mô rất khác nhau, có Cty TNHH tư nhân chỉ có vài chục triệu đồng vốn đăng ký, có những tập đoàn, Tcty quy mô vốn lại lên tới hàng chục, hàng trăm nghìn tỷ đồng.

“Như Vinashin quy mô lên tới hàng chục nghìn tỉ đồng mà chỉ vì một khoản nợ 200 triệu đồng 3 tháng chưa trả mà cho phá sản thì tôi thấy hơi thiển cận và buồn cười” - ông Hiện dẫn chứng.

Chủ nhiệm UB Tài chính ngân sách Phùng Quốc Hiển cũng thẳng thắn nhận xét, nếu cứ căn cứ theo tiêu chí này thì hiện nay chắc chắn có tới 99% doanh nghiệp đang hoạt động sẽ bị rơi vào tình trạng phá sản vì thực tế các DN Việt Nam thường vốn đăng ký chỉ chiếm 15% tổng số vốn hoạt động, còn lại đều do vay vượn, luân chuyển, huy động từ nhiều kênh khác.

Vì vậy, ông Hiển đề nghị, phải căn cứ vào vốn tự có của doanh nghiệp theo một tỷ lệ nhất định, chứ không thể nói đơn giản là 200 triệu. Về thời gian 3 tháng ông Hiển cũng kiến nghị phải nâng lên, đến mức 6 tháng thậm chí vẫn “chưa thấm tháp gì”.

Phó Chánh án Nguyễn Sơn “bác”, khó xây dựng tiêu chí trên tỷ lệ vốn vì DN có nhiều loại vốn hoạt động và quản lý vốn kinh doanh thực tế của một DN không đơn giản. Vì vậy, cứ có khoản nợ đáng kể như tiêu chí đề ra mà không trả được thì nghĩa là DN đã hết sức khó khăn, lâm vào tình trạng phá sản.

Ủng hộ lập luận này, Thứ trưởng KH-ĐT Đặng Huy Đông phân tích, điều kiện phá sản với DN thì không phải đặt ra vấn đề nợ 1 triệu đồng là nhỏ hay 1 tỷ đồng là lớn mà cần đặt câu hỏi, nếu DN hoạt động bình thường thì sao 10 triệu tiền lương hay 200 triệu đồng tiền hàng lại không thanh toán được. Theo ông Đông, chỉ cần 1 người lao động bị nợ lương, đòi hỏi chủ DN không trả được cũng có quyền nộp đơn ra tòa yêu cầu giải quyết phá sản.

Phó Chủ tịch QH Tòng Thị Phóng đồng ý cách đặt tiêu chí hạn mức nợ 200 triệu đồng nhưng cho rằng, cách quy định này không để thuận cho DN hay người lao động, nhà đầu tư mà để thuận cho tòa án, cho thẩm phán. Bà Phóng yêu cầu cơ quan soạn thảo chuẩn bị giải trình kỹ hơn về nội dung này trước Quốc hội tại kỳ họp cuối năm nay.

Theo báo cáo của TAND tối cao, năm 2012 có 69.874 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, trong đó dừng hoạt động và giải thể là 54.261 (có 44.906 doanh nghiệp dừng và 9.355 giải thể). Trong khi đó, 9 năm thi hành luật Phá sản 2004, Tòa án thụ lý tổng số 336 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, Tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản 236 trường hợp (trong đó Toà án quyết định tuyên bố phá sản 83 trường hợp, còn 153 vụ việc chưa ra Quyết định tuyên bố phá sản). Như vậy có thể thấy số lượng đơn yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản so với số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động là rất thấp; có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trong đó có nguyên nhân quy định pháp luật phá sản chưa phù hợp với tình hình kinh tế và xã hội, không tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức yêu cầu tuyên bố phá sản.

P.Thảo

{fcomment}