Gắn đào tạo nghề và giải quyết việc làm với bình đẳng giới

ngày 10/03/2017

 Thúc đẩy các chính sách phát triển nguồn lực lao động nữ, đặc biệt là các chính sách về đào tạo nghề và giải quyết việc làm gắn với bình đẳng giới, là những vấn đề được các chuyên gia khuyến nghị nhằm hướng tới sự bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới về mọi mặt.

Gắn đào tạo nghề và giải quyết việc làm với bình đẳng giới

Định kiến về giới trong lựa chọn nghề nghiệp

Theo số liệu thống kê của Cục Việc làm (Bộ LĐ-TB&XH), trong năm 2016, cả nước đã giải quyết việc làm cho khoảng 1,641 triệu lao động, trong đó lao động nữ chiếm 48% và đạt được chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020.

Về công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nữ, đặc biệt là khu vực nông thôn được chú trọng, ước có khoảng trên 46% lao động nữ được học nghề theo các đề án, chương trình. Đồng thời, Quỹ Quốc gia về việc làm cũng phát huy vai trò hỗ trợ việc làm cho người lao động, nhất là lao động nữ khu vực nông thôn.

Tính đến tháng 11/2016, tổng nguồn vốn từ Quỹ Quốc gia về việc làm đạt trên 5.040 tỷ đồng, doanh số cho vay hàng năm từ 2.000 - 2.500 tỷ đồng, góp phần hỗ trợ giải quyết việc làm cho khoảng 100.000 lao động mỗi năm, trong đó lao động nữ chiếm khoảng 60%. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động - việc làm vẫn gặp phải một số khó khăn, thách thức: Bộ luật lao động chỉ điều chỉnh khu vực có quan hệ lao động, trong khi ở khu vực này nữ giới chỉ chiếm 40,6%, nam giới chiếm 59,4%; Chưa xoá bỏ được định kiến giới trong định hướng nghề nghiệp và lựa chọn ngành nghề đào tạo, các nhóm lao động nữ trong việc tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH chưa công bằng, chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ còn nhiều vướng mắc.

Thực tế cho thấy, nhiều chính sách trong lĩnh vực lao động - việc làm chưa được lồng ghép giới đầy đủ và hiệu quả. Bên cạnh đó, lương bình quân hàng tháng của lao động nữ làm công có hưởng lương khoảng 4,58 triệu đồng, thấp hơn so với lao động nam là 5,19 triệu đồng (theo số liệu báo cáo của Tổng cục Dạy nghề - Bộ LĐ-TB&XH) và tỷ lệ lao động nữ thất nghiệp chiếm 44,6% trên tổng số 1.117.000 người trong độ tuổi lao động bị thất nghiệp, tỷ lệ lao động nữ có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp chiếm 57,2% trong hơn 592.000 quyết định trợ cấp.

Xóa bỏ rào cản về quan niệm

Nguyên nhân của những hạn chế được nhận định là do những rào cản từ quan niệm truyền thống đánh giá thấp khả năng và tiềm năng của phụ nữ. Bên cạnh đó, những yêu cầu cao hơn về trình độ đào tạo, kiến thức, năng lực… đến từ sự thay đổi của thế giới việc làm, trong khi chức năng làm mẹ, chăm sóc con cái và gia đình vẫn luôn được cho là trách nhiệm chủ yếu của phụ nữ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự tham gia và chất lượng công việc của lao động nữ.

Một số quy định của pháp luật lao động còn phân biệt đối xử đối với lao động nữ, chính sách đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm sau học nghề chưa xoá bỏ được định kiến giới trong định hướng nghề nghiệp và lựa chọn ngành nghề đào tạo. Chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ còn nhiều vướng mắc trong thực tế, nhiều chính sách trong lĩnh vực lao động việc làm chưa được lồng ghép giới đầy đủ và hiệu quả...

Nhằm giải quyết những vấn đề nêu trên, các chuyên gia khuyến nghị: Trước hết, cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về phát triển nguồn nhân lực nói chung, phát triển nguồn nhân lực nữ nói riêng trong bối cảnh hội nhập; Nâng cao nhận thức về vai trò và tiềm năng của nguồn nhân lực nữ, về thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực nữ, từ đó nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới; Thúc đẩy lồng ghép giới vào quá trình xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển nguồn nhân lực; Sửa đổi, xóa bỏ các quy định pháp luật gây bất lợi đối với phát triển nguồn nhân lực nữ, đồng thời có các biện pháp hỗ trợ các nhóm lao động nữ yếu thế...; Các tổ chức quốc tế hỗ trợ tài chính và kỹ thuật trong triển khai thực hiện lồng ghép giới trong các chính sách phát triển nguồn nhân lực.

Nguồn GDTĐ